Đỗ Khắc Chung (Trần Khắc Chung)

Trần Khắc Chung (? - 1330), tên thật là Đỗ Khắc Chung, người ở Giáp Sơn. 

Ông là người học rộng tài cao, dạy học ở làng Gốm (làng Quan Tử, xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay). Từ khi ông về dạy học, việc học hành phát đạt, khoa mục nối đời đỗ đạt, nên gọi là làng Quan Tử. Ông có công dạy cho dân làng biết chữ nghĩa, học hỏi tinh thông, trở thành một vùng dân có lễ nghĩa, nên ai cũng rất mến phục ông.

Sau thời gian dạy học ở Sơn Đông, ông về triều đình thi đỗ và làm quan.

Ông có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân giặc Nguyên - Mông lần thứ hai. Ông đã làm sứ giả, vào tổng hành dinh quân giặc, để đàm phán, điều đình; thực hiện xuất sắc chiến lược vừa đánh, vừa đàm của triều đình nhà Trần.

Khi giặc đánh vào Gia Lâm, Vũ Ninh, Đông Ngàn, bắt được quân của ta, thấy người nào cũng thích 2 chữ "Sát Thát" bằng mực vào cánh tay, chúng tức lắm, giết hại rất nhiều. Rồi chúng đến Đông Bộ Đầu, dựng một lá cờ lớn. Vua muốn sai người dò xét tình hình giặc mà chưa tìm được ai. 

Đỗ Khắc Chung tiến lên tâu rằng: "Thần hèn mọn bất tài, nhưng xin được đi". Vua mừng, nói rằng: "Ngờ đâu trong đám ngựa kéo xe muối lại có ngựa kỳ, ngựa ký như thế !". Rồi sai ông đem thư xin giảng hoà.

Tướng giặc Ô Mã Nhi nói: "Quốc Vương ngươi vô lễ, sai người thích chữ "Sát Thát", khinh nhờn thiên binh, lỗi ấy to lắm". 

Ông đáp: "Chó nhà cắn người lạ không phải tại chủ nó. Vì lòng trung phẫn mà họ tự thích chữ thôi, Quốc Vương tôi không biết việc đó. Tôi là cận thần, tại sao lại không có ?". Nói rồi giơ cánh tay cho xem. 

Ô Mã Nhi nói: "Đại quân từ xa tới, nước ngươi sao không quay giáo đến hội kiến, lại còn chống lệnh. Càng bọ ngựa cản bánh xe liệu sẽ ra sao ?" 

Ông đáp: "Hiền tướng không theo cái phương sách Hàn Tín bình nước Yên, đóng quân ở đầu biên giới, đưa thư tin trước, nếu không thông hiếu thì mới là có lỗi. Nay lại bức nhau, người ta nói thú cùng thì chống lại, chim cùng thì mổ lại, huống chi là người". 

Ô Mã Nhi nói: "Đại quân mượn đường để đi đánh Chiêm Thành, Quốc Vương ngươi nếu đến hội kiến thì trong cõi yên ổn, không bị xâm phạm mảy may. Nếu cứ chấp nê thì trong khoảnh khắc núi sông sẽ thành đất bằng, vua tôi sẽ thành cỏ nát".

Ông về rồi, Ô Mã Nhi bảo các tướng rằng: "Người này ở vào lúc bị uy hiếp mà lời lẽ tự nhiên, không hạ chủ nó xướng là Chích, không nịnh ta lên là Nghiêu, mà chỉ nói "Chó nhà cắn người"; giỏi ứng đối. Có thể nói là không nhục mệnh vua. Nước nó còn có người giỏi, chưa dễ mưu tính được". Sai người đuổi theo ông, nhưng không kịp.

Ông làm quan triều Trần trong thời gian tới 50 năm, luôn thăng tiến, trải qua 4 đời vua là Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, Trần Hiến Tông.

Ông được Vua ban Quốc tính là Trần Khắc Chung và đã giữ nhiều chức vụ quan trọng: Đại hành khiển, Tể tướng, Thượng thư, Ngự Sử đại phu, Đại an phủ kinh sư, Quan nội hầu, Sư bảo.

Năm 1306, ông cùng Văn Túc Vương Đạo Tái chủ chương gả Công chúa Huyền Trân cho Vua Chiêm Thành là Chế Mân. 

Năm 1307, khi Vua Chế Mân qua đời, theo lệnh vua Trần Anh Tông, ông vào Chiêm Thành cứu được Công chúa Huyền Trân đưa về Thăng Long, nhưng   ông đã tư thông với công chúa trên đường về.

Trần Khắc Chung còn bị cho là đã xúi giục vua Trần Minh Tông giết hại Huệ Võ Vương Trần Quốc Chẩn.

Em trai Trần Khắc Chung là Đỗ Thiên Hư, cũng là một người nổi tiếng đương thời, từng được cử làm Sứ thần sang nhà Nguyên năm 1288.

Đỗ Thiên Thư kiện nhau với người, tình lý đều trái. Người kia đón xa giá để kêu bày. Vua hỏi về việc xử kiện. Quan trả lời: "Án xử đã xong, nhưng hình như quan xử kiện thoái thác không chịu chuẩn định đó thôi". Vua nói: "Đó là do sợ mà né tránh Khắc Chung đấy".


Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng (là con trai thứ ba của Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn) rất ghét Trần Khắc Chung, mỗi khi thấy ông thì mắng phủ đầu: "Thằng này là điềm chẳng lành đối với nhà nước. Họ tên nó là Trần Khắc Chung thì nhà Trần rồi mất về nó chăng ?". Ông thường sợ hãi né tránh.
********************************

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét