Đình là một công trình kiến trúc cổ truyền ở làng quê Việt Nam.
Trước kia, đình của các làng mạc Việt Nam chỉ là quán để nghỉ.
Năm 1231, Vua Trần Nhân Tông xuống chiếu cho đắp tượng Phật ở đình quán.
Ngôi đình làng với chức năng là nơi thờ Thành hoàng và hội họp của người dân có lẽ bắt đầu vào thời Lê sơ và định hình vào thời nhà Mạc.
Trước đây, đình thường chỉ có 3 gian và 2 chái. Gian giữa không có sạp, trong gian thờ Thành hoàng.
Cuối thế kỷ 17, đình được bổ sung tòa tiền tế, từ gian giữa và kéo dài về sau gọi là chuôi vồ, tạo cho đình mang kiểu chữ Đinh.
Kiến trúc truyền thống được xây dựng dựa trên những nguyên tắc của thuật phong thủy.
Đình chủ yếu lấy địa điểm trung tâm. Lý tưởng nhất là đình có địa điểm thoáng đãng nhìn ra sông nước. Nếu không có được ao hồ thiên nhiên thì dân làng có khi đào giếng khơi để có mặt nước phía trước đình cho đúng thế "tụ thủy" vì họ cho đó là điềm thịnh mãn cho làng.
Kiểu xây dựng bằng gỗ bao gồm các yếu tố nghiêng về trang trí và chạm khắc.
Đình làng thường là một ngôi nhà to, rộng, được dựng bằng những cột lim tròn to thẳng tắp đặt trên những hòn đá tảng lớn. Vỉ, kèo, xà ngang, xà dọc của đình cũng làm toàn bằng gỗ lim. Tường đình xây bằng gạch. Mái đình lợp ngói mũi hài, hai đầu hồi xây bít đốc hoặc làm bốn góc đầu đao cong. Trên nóc đình là hai con rồng chầu mặt nguyệt, tục gọi là "lưỡng long triều nguyệt" hay "lưỡng long tranh châu".
Sân đình được lát gạch. Trước đình có hai cột trụ cao vút, trên đình được tạc hình con nghê.
Trong đình, gian giữa có bàn thờ, thờ một vị thần của làng gọi là Thành hoàng. Một chiếc trống cái cũng được để trong đình, để đánh vang lên theo nhịp ngũ liên, thúc giục dân làng về đình tụ họp bàn tính công việc của làng.
*******************************
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét