Anh mới đôi mươi, trẻ nhất làng.
Xuân Dục, Đoài - Đông, hai cánh lúa,
Bữa thì em tới, bữa anh sang.
Lối ta đi giữa hai sườn núi,
Đôi ngọn, nên làng gọi núi Đôi.
Em vẫn đùa anh: Sao khéo thế,
Núi chồng, núi vợ đứng song đôi ?.
Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới,
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau.
Mới ngỏ lời thôi, đành lỗi hẹn.
Đâu ngờ từ đó bặt tin nhau.
Anh vào bộ đội, lên Đông Bắc,
Chiến đấu quên mình, năm lại năm.
Mỗi bận dân công về, lại hỏi:
Ai người Xuân Dục - Núi Đôi chăng ?.
Anh nghĩ: Quê ta giặc chiếm rồi,
Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi ?.
Mỗi tin súng nổ vùng đai địch,
Sương trắng, người đi lại nhớ người.
Đồng đội có nhau, thường nhắc nhở:
Trung du, làng nước vẫn trông chờ.
Núi Đôi, bốt dựng kề ba xóm,
Em vẫn đi về những bến sông.
Náo nức bao nhiêu, ngày trở lại,
Lệnh trên ngừng bắn, anh về xuôi.
Hành quân qua tắt đường sang huyện,
Anh ghé thăm nhà, thăm Núi Đôi.
Mới đến đầu ao tin sét đánh,
Giặc giết em rồi, dưới gốc thông !
Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa,
Em sống trung thành, chết thủy chung.
Anh ngước nhìn lên: Hai dốc núi
Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen.
Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói,
Núi vẫn đôi, mà anh mất em.
Dân chợ Phù Linh ai cũng bảo:
Em còn trẻ lắm, nhất làng trong.
Mấy năm cô ấy làm du kích,
Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng ?
Từ núi qua thôn, đường nghẽn lối,
Xuân Dục, Đoài - Đông, cỏ ngút đầy.
Sân biến thành ao, nhà đổ chái,
Ngổn ngang bờ bụi, cánh dơi bay.
Cha mẹ dìu nhau về nhận đất,
Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau.
Nứa gianh, nửa mái lều che tạm,
Sương nắng, khuấy dần chuyện xót đau.
Anh nghe có tiếng người qua chợ:
Ta gắng, mùa sau lúa sẽ nhiều,
Ruộng thấm mồ hôi, từng nhát cuốc,
Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu !
Nhưng núi còn kia, anh vẫn nhớ.
Oán thù còn đó, anh còn đây.
Ở đâu, cô gái làng Xuân Dục,
Đã chết vì dân giữa đất này ?.
Ai viết tên em thành liệt sĩ,
Bên những hàng bia trắng giữa đồng ?.
Nhớ nhau anh gọi em: Đồng chí !
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng.
Anh đi bộ đội, sao trên mũ,
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường.
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi,
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm.
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau.
Mới ngỏ lời thôi, đành lỗi hẹn.
Đâu ngờ từ đó bặt tin nhau.
Anh vào bộ đội, lên Đông Bắc,
Chiến đấu quên mình, năm lại năm.
Mỗi bận dân công về, lại hỏi:
Ai người Xuân Dục - Núi Đôi chăng ?.
Anh nghĩ: Quê ta giặc chiếm rồi,
Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi ?.
Mỗi tin súng nổ vùng đai địch,
Sương trắng, người đi lại nhớ người.
Đồng đội có nhau, thường nhắc nhở:
Trung du, làng nước vẫn trông chờ.
Núi Đôi, bốt dựng kề ba xóm,
Em vẫn đi về những bến sông.
Náo nức bao nhiêu, ngày trở lại,
Lệnh trên ngừng bắn, anh về xuôi.
Hành quân qua tắt đường sang huyện,
Anh ghé thăm nhà, thăm Núi Đôi.
Mới đến đầu ao tin sét đánh,
Giặc giết em rồi, dưới gốc thông !
Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa,
Em sống trung thành, chết thủy chung.
Anh ngước nhìn lên: Hai dốc núi
Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen.
Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói,
Núi vẫn đôi, mà anh mất em.
Dân chợ Phù Linh ai cũng bảo:
Em còn trẻ lắm, nhất làng trong.
Mấy năm cô ấy làm du kích,
Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng ?
Từ núi qua thôn, đường nghẽn lối,
Xuân Dục, Đoài - Đông, cỏ ngút đầy.
Sân biến thành ao, nhà đổ chái,
Ngổn ngang bờ bụi, cánh dơi bay.
Cha mẹ dìu nhau về nhận đất,
Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau.
Nứa gianh, nửa mái lều che tạm,
Sương nắng, khuấy dần chuyện xót đau.
Anh nghe có tiếng người qua chợ:
Ta gắng, mùa sau lúa sẽ nhiều,
Ruộng thấm mồ hôi, từng nhát cuốc,
Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu !
Nhưng núi còn kia, anh vẫn nhớ.
Oán thù còn đó, anh còn đây.
Ở đâu, cô gái làng Xuân Dục,
Đã chết vì dân giữa đất này ?.
Ai viết tên em thành liệt sĩ,
Bên những hàng bia trắng giữa đồng ?.
Nhớ nhau anh gọi em: Đồng chí !
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng.
Anh đi bộ đội, sao trên mũ,
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường.
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi,
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm.
****************************************
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét